Lịch sử Chủ_tịch_Hạ_viện_Hoa_Kỳ

Frederick Muhlenberg (1789–1791, 1793–1795) là chủ tịch hạ viện đầu tiên.

Chủ tịch hạ viện đầu tiên là Frederick Muhlenberg, được bầu khi là một đảng viên thuộc Đảng Liên bang cho bốn khóa Quốc hội Hoa Kỳ đầu tiên.[4] Chức vụ chủ tịch hạ viện có được quyền lực lần đầu tiên là dưới thời của Henry Clay (1811–1814, 1815–1820, và 1823–1825).[5] Đối ngược với những vị tiền nhiệm của ông, Clay đã tham dự vào một số cuộc tranh luận, và sử dụng ảnh hưởng của mình để đạt được mục đích thông qua các luật lệ mà ông ủng hộ - chẳng hạn như việc tuyên chiến trong Chiến tranh 1812, và vô số luật khác có liên quan đến "Hệ thống Mỹ" của Clay. Hơn thế nữa, khi không có ứng cử viên nào nhận được đa số phiếu đại cử tri đoàn trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1824, khiến cho việc chọn Tổng thống Hoa Kỳ phải được Hạ viện Hoa Kỳ quyết định. Chủ tịch Hạ viện Clay đưa sự ủng hộ của mình dành cho John Quincy Adams thay vì Andrew Jackson và vì thế John Quincy Adams chiến thắng. Sau khi Clay về hưu năm 1825, quyền lực của chủ tịch hạ viện một lần nữa lại bắt đầu suy vong; tuy nhiên vào cùng lúc đó, các cuộc bầu cử chủ tịch hạ viện lại trở nên ngày càng gay go căng thẳng. Khi Nội chiến Hoa Kỳ sắp đến gần thì một số các phần tử bên trong các đảng chính trị tự đề cử ra ứng cử viên của mình, khiến cho rất khó cho một ứng cử viên nào đạt được một đa số phiếu. Năm 1855 và lần nữa vào năm 1859, chẳng hạn, cuộc đua tranh chức chủ tịch hạ viện kéo dài đến 2 tháng trước khi hạ viện đạt được một kết quả. Các chủ tịch hạ viện có chiều hướng ngồi ở chức vị này rất ngắn hạn; Ví dụ từ năm 1839 đến năm 1863 có đến 11 chủ tịch hạ viện, chỉ có một người phục vụ hơn 1 nhiệm kỳ.

Về cuối thế kỷ 19, chức vụ chủ tịch hạ viện bắt đầu phát triển thành một chức vụ đầy quyền lực. Một trong số những nguồn lực quan trọng nhất để tạo nên quyền lực của chủ tịch hạ viện là chức vụ chủ tịch Ủy ban Luật pháp Hạ viện Hoa Kỳ (United States House Committee on Rules) mà sau khi có cuộc tái tổ chức hệ thống ủy ban vào năm 1880 đã trở thành một ủy ban thường trực đầy quyền lực nhất của Hạ viện Hoa Kỳ. Hơn thế, một số các chủ tịch hạ viện đã trở thành những khuôn mặt lãnh đạo trong các đảng chính trị của mình; các ví dụ gồm có các đảng viên Dân chủ Samuel J. Randall, John Griffin Carlisle, và Charles F. Crisp, hay đảng viên Cộng hòa James G. Blaine, Thomas Brackett Reed, và Joseph Gurney Cannon.

Quyền lực của chủ tịch hạ viện được nâng lên tầm cao dưới thời của đảng viên Cộng hòa Thomas Brackett Reed (1889–1891, 1895–1899) làm chủ tịch hạ viện. "Sa hoàng Reed", biệt danh mà các đối thủ của ông đã dùng để gọi ông,[6] đã tìm cách chấm dứt sự ngăn cản thông qua các đạo luật mà đảng thiểu số thường tiến hành bằng chiến thuật không bỏ phiếu mặc dù có mặt tại phòng họp hạ viện.[7] Bằng cách từ chối bỏ phiếu như thế, đảng thiểu số có thể tin chắc rằng số phiếu biểu quyết cần thiết không đạt được thì kết quả biểu quyết sẽ trở thành bất hợp lệ và vì vậy 1 đạo luật sẽ không thể trở thành luật. Tuy nhiên, Reed tuyên bố rằng các thành viên hạ viện có mặt tại phòng họp hạ viện nhưng từ chối bỏ phiếu sẽ vẫn được tính phiếu vì mục đích đạt được con số phiếu cần thiết. Bằng cách này và những lệnh khác, Reed muốn bảo đảm rằng các đảng viên Dân chủ không thể ngăn cản chương trình nghị sự của đảng Cộng hòa. Vị thế chủ tịch hạ viện lên đến đỉnh điểm trong nhiệm kỳ của đảng viên Cộng hòa Joseph Gurney Cannon (1903–1911). Cannon đã thực hiện sự kiểm soát khác thường đối với tiến trình lập pháp; ông định đoạt chương trình nghị sự của Hạ viện Hoa Kỳ, bổ nhiệm thành viên cho tất cả các ủy ban hạ viện, chọn ra các chủ tịch ủy ban hạ viện, lãnh đạo ủy ban luật pháp hạ viện, và định đoạt ủy ban hạ viện nào sẽ được xem xét mỗi đạo luật. Ông sử dụng quyền lực của mình một cách mạnh mẽ để đoan chắc rằng các đề nghị của đảng Cộng hòa được Hạ viện Hoa Kỳ thông qua. Tuy nhiên vào năm 1910, các đảng viên Dân chủ và một số đảng viên Cộng hòa bất mãn đã cùng hợp sức với nhau tước lấy rất nhiều quyền lực của ông trong đó có bao gồm khả năng nêu tên các thành viên ủy ban và chức chủ tịch Ủy ban Pháp luật Hạ viện Hoa Kỳ.[8] 15 năm sau, Chủ tịch Hạ viện Nicholas Longworth đã phục hồi lại được rất nhiều quyền lực đã mất nhưng không phải là tất cả những quyền lực đã bị mất từ chức vụ này.

Joseph Gurney Cannon (1903–1911) là một trong những Chủ tịch Hạ viện quyền lực nhất.

Một trong số những chủ tịch hạ viện có ảnh hưởng nhất là đảng viên Dân chủ Sam Rayburn.[9] Rayburn là chủ tịch hạ viện phục vụ lâu nhất trong lịch sử, giữ chức vụ này từ năm 1940 đến 1947, 1949 đến 1953, và từ 1955 đến 1961. Ông giúp tạo hình cho nhiều đạo luật, làm việc thầm lặng trong hậu trường cùng với các ủy ban hạ viện. Ông cũng giúp thông qua một số luật nội địa và các chương trình viện trợ ngoại quốc mà các tổng thống Franklin D. RooseveltHarry Truman chủ trương. Người kế nhiệm Rayburn, đảng viên Dân chủ John William McCormack (phục vụ từ 1962–1971), là một chủ tịch hạ viện ít có ảnh hưởng hơn, đặc biệt là vì có sự không hài lòng của các thành viên trẻ hơn trong đảng Dân chủ. Trong giữa thập niên 1970, quyền lực của chủ tịch hạ viện một lần nữa lại phát triển dưới thời của đảng viên Dân chủ Carl Albert làm chủ tịch. Ủy ban Luật pháp Hạ viện Hoa Kỳ không còn là một ủy ban bán độc lập như đã từng như vậy trước đó kể từ cuộc cải tổ năm 1910; thay vào đó, một lần nữa chức vụ này lại trở thành một thứ vũ khí của giới lãnh đạo đảng. Hơn nữa, vào năm 1975, chủ tịch hạ viện được phép bổ nhiệm đa số thành viên cho Ủy ban Pháp luật Hạ viện Hoa Kỳ. Trong khi đó quyền lực của các vị chủ tịch ủy ban bị tước bỏ làm tăng thêm sức ảnh hưởng to lớn của chủ tịch hạ viện.

Người kế nhiệm Albert là đảng viên Dân chủ Tip O'Neill, một chủ tịch hạ viện nổi tiếng vì sự chống đối công khai của ông đối với các chính sách của Tổng thống Ronald Reagan. O'Neill là vị chủ tịch hạ viện phục vụ lâu dài và liên tục nhất (từ năm 1977 đến 1987). Ông thách thức Tổng thống Reagan về các chương trình đối nội và về những chi tiêu quốc phòng. Các đảng viên Cộng hòa đã nhắm mục tiêu vào O'Neill trong các cuộc vận động tranh cử của họ vào năm 1980 và 1982; tuy nhiên, đảng Dân chủ vẫn duy trì được thế đa số trong cả hai năm đó.

Vai trò của các đảng phái bị đảo ngược vào năm 1994 khi đảng Cộng hòa giành quyền kiểm soát Hạ viện Hoa Kỳ sau khi mất đến 40 năm trong vai trò đảng thiểu số. Chủ tịch Hạ viện Newt Gingrich thường xuyên đụng độ với tổng thống Dân chủ Bill Clinton; đặc biệt, chương trình có tên gọi "Contract with America" (tạm dịch: Hợp đồng với nước Mỹ) của Gingrich là một nguồn gây tranh chấp. Gingrich từ chức năm 1998 khi đảng Cộng hòa thất bại nặng nề trong các cuộc bầu cử quốc hội mặc dù vẫn giữ được đa số ít ỏi tại hạ viện. Người kế nhiệm, Dennis Hastert, đóng một vai trò ít nổi bật hơn nhiều. Trong các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006, đảng Dân chủ giành được đa số tại Hạ viện Hoa Kỳ. Nancy Pelosi trở thành chủ tịch hạ viện khi Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ 110 nhóm họp vào ngày 4 tháng 1 năm 2007 đã đưa bà lên thành người phụ nữ đầu tiên trở thành chủ tịch hạ viện. Với việc Barack Obama đắc cử tổng thống và đảng Dân chủ giành quyền kiểm soát cả hai viện quốc hội, Pelosi trở thành chủ tịch hạ viện đầu tiên kể từ khi Tom Foley nắm giữ chức vụ này trong lúc đảng Dân chủ nắm quyền lãnh đạo cả hai viện quốc hội tại Washington.[10] Đảng Cộng hòa giành quyền kiểm soát Hạ viện Hoa Kỳ trong các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2010, và vì thế John Boehner trở thành chủ tịch hạ viện vào đầu tháng 1 năm 2011.[11]

Nếu đảng của chủ tịch hạ viện mất quyền kiểm soát hạ viện trong một cuộc bầu cử, và nếu cả chủ tịch hạ viện và lãnh tụ đa số vẫn còn nằm trong ban lãnh đạo cao cấp của đảng thì điều này có nghĩa rằng họ sẽ trở thành lãnh tụ thiểu số và người đặc trách tổ chức và kỷ luật của đảng thiểu số (minority whip) theo thứ tự vừa nói. Khi đảng thiểu số chỉ còn có một vị trí lãnh đạo sau khi mất chiếc ghế chủ tịch hạ viện thì có thể xảy ra một cuộc chạy đua để giành lấy các vị trí lãnh đạo còn lại. Joseph William Martin, Jr.Sam Rayburn là hai ví dụ gần nhất về các chủ tịch sắp ra đi nhưng họ vẫn tìm cách trở thành lãnh tụ thiểu số để giữ quyền lãnh đạo đảng tại hạ viện khi đảng của họ bị thay quyền kiểm soát hạ viện trong cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950. Các chủ tịch hạ viện sau này đều không trở về vị trí lãnh đạo đảng khi đảng của họ bị mất quyền kiểm soát hạ viện (Tom Foley mất ghế của mình, Dennis Hastert trở về vị trí hậu trường của đảng); tuy nhiên, Nancy Pelosi thông báo rằng bà sẽ chạy đua vào chức lãnh tụ thiểu số khi Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ 112 khai mạc cũng là lúc chức chủ tịch hạ viện của bà kết thúc.[12]

Liên quan

Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chủ thể liên bang của Nga Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh Việt Nam Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ Chủ tịch Thượng viện tạm quyền Hoa Kỳ Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam